Hotline: 028 363 66 229

Lý giải di truyền tôm phát triển nhanh không phải do thất bại trong nuôi trồng

Robins Macintosh - Phó chủ tịch điều hành của Charoen Pokphand Foods (CPF) và Giám đốc điều hành của Homegrown Shrimp.

Tôm thẻ
Cải tiến di truyền về tôm sẽ đi kèm với cải tiến trong việc thực hành nuôi tôm. Ảnh: pqm.vn

Đã lập luận rằng, trong một trang trại được quản lý tốt, rất khó để đánh bại các dòng tôm phát triển nhanh. Chống lại niềm tin phổ biến rằng việc lựa chọn các dòng thuần túy để tăng trưởng luôn có tỷ lệ sống sót thấp hơn.

Nghi vấn về ngành tôm 

Nhiều người nông dân nuôi tôm đã chứng minh việc tôm phát triển nhanh sẽ đem lại mức độ thành công cao. Tuy nhiên, Macintosh lại đi ngược với số đông khi đưa ra các nghi vấn về những dòng tôm như thế này. Đặc biệt là mức độ chống chọi với bệnh tật của tôm.

Nghi ngờ này được chắc chắn hơn khi vào những năm 2010, 2011, 2012 khi mà tôm CP được mệnh danh là “lớn nhanh, chết nhanh”, xảy ra đợt bùng phát ban đầu của hội chứng tôm chết sớm (EMS). Những người nông dân bán tôm CP rất căng thẳng vào thời điểm đó, đặc biệt là ở châu Á. Tuy nhiên, khi dựa vào đánh giá chung thì các dòng tương tự cũng đang trong tình cảnh đó.

Khi xem xét đàn cá ở Nam Mỹ, vốn được cho là loài có khả năng chịu đựng được EMS. Khi được nhập vào châu Á, chúng cũng có kết cục tượng tự như những đàn khác. Vậy điều gì đang xảy ra, tại sao các giống loài nhập khẩu vào châu Á lại có những biến đổi như thế.

Lý giải về di truyền học ở tôm 

Vào thời điểm CP không có bệnh cấp tính EMS và EHP. Do đó đã tạo nên danh tiếng tốt cho tôm CP. Tuy nhiên sau khi EMS xuất hiện, CP đã kháng được EMS với tỷ lệ sống sót tăng vọt từ 30 - 90%, tạo ra bước tăng vọt ở cấp độ trang trại.

Macintosh đã lý giải cho việc này rằng những cải tiến di truyền về tôm sẽ đi kèm với cải tiến trong việc thực hành nuôi tôm. Do đó, tốc độ tăng trưởng không phải là do thành công của chương trình nhân giống CP.

Điều này được cải tiến trong chăn nuôi, bao gồm việc xây dựng nhà vệ sinh cho tôm, để giữ cho đáy ao luôn sạch, giảm nồng độ APHNS trong ao. Bởi EMS không phải là một căn bệnh nhiễm trùng. Chúng là bệnh nhiễm độc khi môi trường sống của tôm xuất hiện hàm lượng nitơ cao. Do vỏ tôm, tôm chết, thức ăn thừa của tôm là môi trường thuận lợi để APHNS phát triển, gây hại cho tôm. Do đó, việc quản lý môi trường sống cho tôm rất cần thiết, việc xử lý chất thải tôm không chỉ làm giảm độc tố mà còn loại bỏ được những ảnh hưởng xấu khác. Dẫn đến tăng trưởng theo đường thẳng trong chu kỳ nuôi.

Macintosh cũng nhận định, trước khi EMS xuất hiện, kích thước của tôm khi thu hoạch là 16 - 18g. Nhưng khi chúng xuất hiện, đến năm 2019 - 2020, kích thước ấy đã tăng lên 28g. Nếu không có EMS, chắc chắn sẽ không có những cải tiến trong chăn nuôi như về vấn đề sức khỏe và khả năng chống chịu lại độc tố Vibrio của tôm.

Như vậy, di truyền học và quản lý ao nuôi luôn có quan hệ hỗ trợ, quan trọng không kém trong chăn nuôi. Nếu như người nông dân cứ duy trì cách quản lý cũ, thì sẽ không thấy được sự cải thiện về di truyền học.

Thay đổi trong công tác quản lý ao nuôi 

Macintosh thực hiện quản lý một trại tôm nhỏ R&D, cho phép nông dân đã không thực hiện những thay đổi trong quản lý ao và thức ăn để các dòng tôm mới phát huy hết tiềm năng tăng trưởng của chúng.

Tuy nhiên, bằng cách tăng phần thức ăn và quản lý chất lượng nước, Macintosh đã nhanh chóng có thể xác nhận rằng, tỷ lệ tăng trưởng của ao nuôi tỷ lệ thuận với tỷ lệ tăng trưởng đạt được trong trung tâm phát triển di truyền. Một yếu tố khác cần được điều chỉnh, đó là mức oxy. Các hướng dẫn về mức oxy cần phải được tăng lên cùng với tốc độ tăng trưởng và thức ăn tăng lên.

Các nhóm kỹ thuật của CP sau đó cũng đã hướng dẫn nông dân cách quản lý cần thiết, nhằm tận dụng lợi thế của các dòng di truyền, phát triển nhanh hơn và trong một thời gian ngắn. Cách này đã có sự áp dụng rộng rãi khái niệm quản lý mới hơn để mang lại lợi ích cho các dòng phát triển nhanh.

Một câu chuyện cảnh báo 

Mặc dù tốc độ tăng trưởng của tôm đã được cải thiện nhờ sự kết hợp thức ăn giàu protein với các dòng tôm tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, kéo theo đó là sự gia tăng về tình trạng vỡ ao, đặc biệt là ở châu Á. Thay vì sử dụng những loại tôm được lựa chọn thuần túy để làm thức ăn chăn nuôi, phát triển nhanh. 

Những thất bại này đều có liên quan nhiều đến việc quản lý ao chưa được tốt, hơn là bất kỳ điểm yếu cố hữu nào của tôm. Và rằng các vấn đề về tỷ lệ tử vong ngày càng tăng chủ yếu là do người nông dân không điều chỉnh được các chiến lược cho ăn và thức ăn cho phù hợp với vật nuôi và môi trường.

Do đó, Macintosh cho rằng việc quản lý sai ao nuôi đã tạo ra nhu cầu về tôm khỏe hơn. Việc chuyển đổi từ tăng trưởng nhanh sang nhiều dòng khỏe mạnh hơn có thể là không cần thiết. Nếu người nông dân quản lý tốt tỷ lệ thức ăn, mức protein và quản lý ao nuôi. Không vượt quá khả năng chịu tải môi trường của ao, trang trại hoặc khu vực chung.

Hòa Thy

Nguồn: Tép Bạc